
Phượng Tía
Cộng tác viên
Phượng Tía
Cộng tác viên
Nữ Đế, Chuyện Chưa Kể: Kỳ 7- Thiện Đạo Quốc Mẫu Trần Thị Nguyệt: Thế Gia Chủ Mẫu
Đăng lúc:
1750913095000
Trong:
Lịch sử
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><br></p></div><div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Từ thường dân, một bước trở thành nguyên phối của cháu trai đương kim Hoàng hậu, ở độ tuổi trăng tròn Trần Thị Nguyệt đã là phu nhân danh giá, sớm đảm đương trọng trách của chủ mẫu tương lai. Những tưởng người đầu tiên được Trần Liễu cưới hỏi đàng hoàng rước về làm vợ sẽ được cả đời êm ấm ở vị trí chính thất, song giữa thời buổi đất nước còn loạn lạc, bánh xe thời cuộc liên tục xoay vần thì bất cứ gia đình nào cũng ít nhiều trải qua sóng gió.<br><i>"Phúc đức tại mẫu"</i>, người mẹ hiền để lại phúc phần cho con cháu. Thiện Đạo Quốc mẫu đã sống một cuộc đời thật giống như tên huý Trần Thị Nguyệt của bà, bà chính là vầng trăng sáng giữa màn đêm, mang sự dịu dàng vỗ về an ủi cho chồng, mang ánh sáng trong trẻo thuần khiết, không chói loà mà kiên định soi tỏ cả khi bầu trời quang đãng hay lúc mây mù che phủ để nuôi dưỡng thân tâm, trao truyền đức hạnh cho con cháu, cho đời sau kế thừa.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/4f999d3e373e53ab89ad4a9c5afe86102389bcad2de77e31b025270ea5d51e21.jpg"alt="7.Thien Dao quoc mau.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Internet)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>1.
</b><b>PHU
NHÂN HÀO MÔN</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đại Việt những năm 1220, họ Trần là danh gia vọng
tộc ở Hải Ấp. Xuất phát từ gia đình hào trưởng địa phương phát đạt nhờ nghề
chài lưới, sau chục năm bước lên vũ đài chính trị cùng tài năng của người tộc
trưởng gian hùng Trần Tự Khánh, Trần gia dần trở thành danh môn bậc nhất lúc bấy
giờ. Bởi thế mà ngày thiếu nữ Trần Thị Nguyệt (Thiện Đạo Quốc mẫu sau này)
thành hôn với Quan nội hầu Trần Liễu, trưởng tử của Liệu hầu Trần Thừa, cháu
trai Thái uý Trần Tự Khánh, hẳn bao người tấm tắc cô gái này quả là có phúc. Tới
nay, không có nhiều tư liệu sử sách ghi chép thân thế của bà, song người viết đồ
rằng để lọt vào mắt xanh của thế gia như vậy, chắc chắn người phụ nữ ấy cũng phải
có xuất thân tương xứng, cũng là nữ nhân có sắc có tài, có đủ công dung ngôn hạnh.
</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Từ thường dân, một bước trở thành nguyên phối của
cháu trai đương kim Hoàng hậu, ở độ tuổi trăng tròn Trần Thị Nguyệt đã là phu
nhân danh giá, sớm đảm đương trọng trách của chủ mẫu tương lai. Những tưởng người
đầu tiên được Trần Liễu cưới hỏi đàng hoàng rước về làm vợ sẽ được cả đời êm ấm
ở vị trí chính thất, song giữa thời buổi đất nước còn loạn lạc, bánh xe thời cuộc
liên tục xoay vần thì bất cứ gia đình nào cũng ít nhiều trải qua sóng gió.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>2.
</b><b>CHÍNH
THẤT TRỞ THÀNH THIẾP THẤT</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có lẽ cuộc đời của Trần Thị Nguyệt sẽ bằng phẳng
hơn nhiều nếu không xảy ra sự việc người chú chồng đứng đầu họ Trần bấy giờ-
Thái uý Trần Tự Khánh đột ngột qua đời vào năm 1223. Sau khi Trần Tự Khánh mất,
quyền bính trong triều được giao cho người anh trai Trần
Thừa kế tục chức vị Thái uý phụ chính, người em họ Trần Thủ Độ được giao chức Điện tiền chỉ huy sứ nắm giữ
quân đội. Bằng sự khôn khéo và bản lĩnh chính trị, Trần Thừa
đã nhanh chóng nắn dòng chỉnh hướng đưa vị trí trưởng tộc về lại nhánh của mình. Có nguồn sử liệu
ghi rằng trước đó, con của Trần Tự Khánh là Hiển Đạo vương Trần Hải đã từng dâng
lễ vật cầu hôn Thuận Thiên công chúa, trưởng nữ của vua Lý Huệ Tông. Thế nhưng
sau khi Trần Tự Khánh qua đời, người được ban hôn với Thuận Thiên là Trần Liễu
dù lúc này Trần Liễu đã có nguyên phối là Trần Thị Nguyệt. Bởi Thuận Thiên là công
chúa thì đương nhiên ở vị trí chính thất, nên Trần Liễu phải tự thu xếp chuyện
trong nhà đư Trần Thị Nguyệt xuống thành thiếp. Làm dâu hào môn thời phong kiến,
hẳn Trần Thị Nguyệt hiểu rõ việc không thể mong cầu sẽ là nữ nhân duy nhất của
chồng. Như các nam nhân danh môn khác, Trần Liễu cũng nạp thiếp. Song có lẽ người
phụ nữ ấy chẳng thể ngờ lại có ngày mình rơi vào tình cảnh đang là chính thất lại
trở thành thiếp thất. Từ vợ cả nay thành vợ lẽ, từ chủ mẫu rớt xuống thị thiếp,
Trần Thị Nguyệt hẳn đã phải chịu nhiều ấm ức, tủi hổ trong lòng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau
lễ thành hôn với Trưởng công chúa Thuận Thiên, Trần Liễu trở thành phò mã, con
rể vua và được sắc phong làm Phụng Càn vương.
Công chúa về vương phủ khi chưa tròn mười tuổi, còn non nớt, dù chẳng được
làm vương phi song những năm Thuận Thiên chưa thành niên, mọi chuyện đối nội
trong nhà hẳn là đều do Trần Thị Nguyệt chăm lo quán xuyến. Các tư liệu lịch sử
ghi nhận rằng cuộc hôn nhân của Trần Liễu và Thuận Thiên là phu thê hoà ái,
tình cảm đậm sâu. Điều này cho thấy Thuận Thiên thật sự được chồng và nhà chồng
yêu thương. Từ đó ta cũng thấy được Trần Thị Nguyệt là người vợ hiền hậu, bao
dung, khéo đối nhân xử thế, biết hy sinh lợi ích của riêng mình để cho gia đình
êm ấm. Nếu như Thuận Thiên sinh hạ cho Trần Liễu hai người con trai là đích tử
Trần Doãn (Vũ Thành vương) và Trần Quốc Khang (Tĩnh Quốc đại vương, chào đời
trên danh nghĩa là con trưởng vua Trần Thái Tông sau sự biến năm 1237), thì Trần
Thị Nguyệt cũng sinh ra những người con thông minh xuất chúng, tài năng đức độ
cho Trần Liễu. Theo các tư liệu phả hệ Trần tộc ghi chép lại thì bà được cho là
mẹ sinh của trưởng tử Trần Tung (Hưng Ninh vương, Tuệ Trung thượng sĩ), Hưng Đạo
Đại vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều
(hoàng hậu của vua Trần Thánh Tông, mẹ của Phật hoàng Trần Nhân Tông).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>3.
</b><b>NGƯỜI
VỢ TÀO KHANG</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mười mấy năm về làm vợ Trần Liễu, Trần Thị Nguyệt
chứng kiến toàn bộ thăng trầm cuộc đời chồng. Bà gắn bó với ông từ thưở ông mới
chỉ là thiếu gia nhành thứ tới vị trí đích tôn họ Trần; từ Quan nội hầu, cháu
trai Hoàng hậu tới Phò mã, Phụng Càn vương con rể vua Lý Huệ Tông; từ Khâm Minh
vương, huynh trưởng của vua khai mở triều Trần- Trần Thái Tông (năm 1225) được
thăng tước Hiển hoàng Thái uý phụ chính (sau khi Thượng hoàng Trần Thừa qua đời
năm 1234) rồi vì mắc tội mà bị giáng xuống làm Hoài vương (năm1236). Trong những
năm tháng ấy, bà là người phụ nữ âm thầm đứng sau lưng chồng, đứng sau vương
phi Thuận Thiên, âm thầm đồng hành, chăm sóc, sẻ chia gian khó, chung tay quán
xuyến chuyện lớn nhỏ, những mong cho chồng vạn sự hanh thông, cho gia đình được
bình an hoà hảo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng có lẽ Trần Thị Nguyệt càng mong mỏi yên
bình bao nhiêu thì ông trời càng muốn trao thêm thử thách bấy nhiêu. Dù bà đã
hy sinh hết mình, đã nỗ lực hết sức, đã cam chịu thiệt thòi, an phận thứ thiếp
thì sóng gió vẫn chưa dừng lại với gia đình Hoài vương. Năm
1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ
lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, chính thất của Trần Liễu đồng
thời là chị gái của Chiêu Thánh, đang mang thai 3 tháng làm Hoàng hậu để lấy đứa trẻ
mà nhờ cậy về sau. Nhân lúc triều đình cử Trần Liễu đi xa, Thái sư Trần Thủ Độ
và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung đưa Thuận Thiên công chúa vào cung. Bất lực trước
tình cảnh éo le này, vua Trần Thái Tông bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử định
đi tu. Trần Liễu trở về nhận hung tin, ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, liền
họp quân nổi loạn ở sông Cái. Một khi đã làm phản nếu thất bại sẽ là tội chết,
hại cả gia đình bị xử tru di. Không ai hay tâm tư Trần Liễu lúc đó liệu có chỉ
đơn thuần là bất bình mà làm phản, hay còn có cả tham vọng nắn lại dòng trưởng
thứ giống như cha mình từng làm được. Nhưng với một người phụ nữ có chồng làm
phản, chính thất của chồng bị đưa vào cung, là mẹ của mấy đứa con thơ, là chỗ dựa
của bao nhiêu con người trong vương phủ, Trần Thị Nguyệt phải đứng trước tình cảnh
ngặt nghèo, vô cùng hoang mang, lo sợ bất an. Trong 2 tuần Trần Liễu làm loạn,
có lẽ bà ấy đã sống trong sợ hãi, ăn không thấy ngon ngủ chẳng yên giấc mà vẫn
phải giữ vững tay chèo lái gia đình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dù
Trần Liễu có sức trẻ, có tài năng, có dã tâm, có quân đội thì vẫn không phải là
đối thủ của Thái sư Trần Thủ Độ. Với bản lĩnh gian hùng và cá tính bất chấp tất
cả để đạt mục đích của mình, Trần Thủ Độ nhanh chóng rước được vua Thái Tông trở
về và thẳng tay tiêu diệt đội quân làm phản. Khi biết mình thất thế, Trần Liễu đành
đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Thái Tông xin tha tội. Vua Trần
Thái Tông đã lấy thân mình ra che cho anh và can ngăn ông chú họ, nhờ đó Trần
Liễu mới thoát chết<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Li%E1%BB%85u#cite_note-PCV-8"></a>.
Hoài vương được tha tội chết nhưng toàn bộ quân lính theo ông nổi loạn đều bị xử
tử. Kết cục sự biến năm 1237, Vua Trần Thái Tông buộc phải phế lập, vương phi Thuận
Thiên trở thành Hoàng hậu, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh
vương, còn Chiêu Thánh hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau
sự biến, do Thuận Thiên không còn là vợ Trần Liễu nên Trần Thị Nguyệt trở lại
làm chính thất như vị trí trước đây của bà. Thế nhưng chồng bà đã không còn là
Trần Liễu của trước đây, gia đình bà cũng không còn được sum vầy sớm tối. Chính
sử không ghi chép rõ nhưng người viết đồng thuận với nhận định của nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng sau sự việc trên, các con của Trần Liễu bị tách khỏi cha
mình và trở thành con tin ở kinh thành trong khi gia đình Trần Liễu chuyển tới
đất An Sinh (Quảng Ninh ngày nay). Điều đó cũng có nghĩa rằng Trần Thị Nguyệt
phải lìa xa các con để theo chồng rời
đi. Trần Liễu phẫn uất vì mối hận bị cướp vợ cướp con, bất lực vì mất hết quân
đội phải chứng kiến quân lính của mình bị tàn sát, chịu đả kích khi con cái bị
triều đình giữ làm con tin ở Kinh thành mà ôm hậm hực, bất mãn, sa sút chán nản
tới tận lúc qua đời. Những ngày tháng đó chắc hẳn không khí trong phủ An Sinh
vương chẳng hề nhẹ nhàng, cũng chẳng dễ sống, nhưng người vợ tào khang Trần Thị
Nguyệt vẫn một lòng một dạ ở bên ông chăm sóc hầu hạ, đồng hành hỗ trợ ông gánh
vác trách nhiệm làm chủ vương phủ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử
chép, năm Mậu Thân (1248), Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời khi mới 33 tuổi. Ba
năm sau, tháng giêng năm 1251, xảy ra sự việc Trần Quốc Tuấn - người con trai
tài năng, niềm tự hào của ông bà lại đem lòng yêu Thiên Thành trưởng công chúa
(được nhận định là con gái út của Thái Tổ Trần Thừa, tức em cùng cha khác mẹ của
Trần Liễu) rồi hồ đồ làm ra sự việc tày đình đang đêm lẻn vào khuê phòng công
chúa cướp dâu ngay trong phủ Nhân Đạo vương (bố chồng tương lai của công chúa).
Lần ấy nếu không nhờ Thuỵ Bà công chúa cầu cứu vua Trần Thái Tông kịp thời giải
vây và đứng ra dàn xếp thì rất có thể Quốc Tuấn mất mạng ở phủ Nhân Đạo vương
(thời đó Luật pháp cho phép người chồng được tự quyền giết chết tên gian phu, kẻ
ngoại tình khi bắt tại trận). Thu xếp xong sự việc gây ra nỗi hổ thẹn này thì tiền
đồ của gia đình An Sinh vương càng sa sút, những đứa con của ông bà sau này đã rất
chật vật, nỗ lực để chứng minh tài năng của mình, để có được lòng tin và sự trọng
dụng của đế vương. Tới tháng 4 năm đó, An Sinh vương Trần Liễu qua đời ở tuổi 41, được truy tặng thuỵ hiệu là Khâm
Minh Đại vương. Một số tài liệu cho rằng sau khi mãn tang chồng thì An Sinh vương
phi đã xuất gia với pháp hiệu Diệu Hương. Tuy rằng cuộc đời Trần Liễu nhiều
sóng gió, lắm thăng trầm mà đa phần là điều bất như ý, từng mất chính thất, mất
con trai, mất quyền lực, mất tiền đồ nhưng có thể nói ông ấy đã có được một hồng
nhan tri kỷ, một người vợ tào khang ở bên ông trọn nghĩa phu thê, một đời son sắt.
</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>4.
</b><b>THIỆN ĐẠO QUỐC MẪU, PHÚC ĐỨC
TẠI MẪU</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người
viết chưa tìm được nguồn tư liệu về thời điểm Trần Thị Nguyệt được phong làm
Thiện Đạo Quốc mẫu, cũng không thấy tài liệu nào chép về năm mất của bà. Song
cá nhân mình đồ rằng, với tình hình lúc đó thì có lẽ phải sau này, khi các con
của bà thể hiện được tài năng, chấn hưng vị thế gia tộc, khi Trần Quốc Tuấn lập
đại công trong các lần kháng chiến chống Nguyên Mông và được phong tước Tiết chế
Quốc công Hưng Đạo Đại vương thì bà được truy phong là Thiện Đạo Quốc mẫu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc
đời của Trần Thị Nguyệt cũng thăng trầm sóng gió cùng với biến động cuộc đời chồng
bà, lên xuống theo bước chân công danh sự nghiệp của các con bà. Như mọi người
phụ nữ Việt, bà mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp kế thừa bao đời của người
vợ, người mẹ dân tộc Việt: chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh, đầy lòng bao
dung, một lòng một dạ yêu chồng thương con, vì chồng vì con mà gánh gồng đảm
đương vượt mọi khổ ải. Cứ nhìn vào những người con nổi danh của bà về sau: một
thiền sự đạo hạnh là thầy của Phật hoàng - Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung, một
nhà quân sự thiên tài được hậu thế suy tôn Đức Thánh Trần- Hưng Đạo Đại vương
Trần Quốc Tuấn, một mẫu nghi thiên hạ hiền đức sinh ra Phật hoàng- Nguyên Thánh
Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều, ta có thể thấy họ đã được thai nghén, nuôi
dưỡng, chăm nom và kế thừa những phẩm chất tốt đẹp từ một người mẹ đức độ, thiện
lương như thế nào. <i>"Phúc đức tại mẫu"</i>, người mẹ hiền để lại phúc phần cho con
cháu. Thiện Đạo Quốc mẫu đã sống một cuộc đời thật giống như tên huý Trần Thị
Nguyệt của bà, bà chính là vầng trăng sáng giữa màn đêm, mang sự dịu dàng vỗ về
an ủi cho chồng, mang ánh sáng trong trẻo thuần khiết, không chói loà mà kiên định
soi tỏ cả khi bầu trời quang đãng hay lúc mây mù che phủ để nuôi dưỡng thân
tâm, trao truyền đức hạnh cho con cháu, cho đời sau kế thừa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>